Quảng Trị

Tối qua đi ngủ sớm nên nay tôi dậy cũng rất sớm. Không gì bằng một giấc ngủ chất lượng. Ra ngoài bờ biển thấy người dân ở các làng chài vừa đánh bắt cá về, tôi tranh thủ chụp vài tấm ảnh sinh hoạt đời thường của người dân nơi đây vào lúc sáng sớm. Bình minh bắt đầu lên.

Ngày hôm nay, tôi sẽ đi về hướng tây của tỉnh Quảng Trị. Đi dọc theo đường Xuyên Á, tôi chạy xe qua làng Mai Xá, thế là tiện thể vào ăn lại món bún hến ở đúng nơi mà nó sinh ra.

Trên đường đi, tôi có ghé qua chợ phiên Cam Lộ, đúng vào hôm người ta họp chợ nên rất nhiều thứ được bày bán. Thấy bán cả bánh ít lá gai, tôi mua một ít để trên đường nếu có đói thì ăn.

Thẳng tiến về huyện Hướng Hóa.


Đường 9 – Khe Sanh.

Trên đường tới thị trấn Khe Sanh thuộc huyện Hướng Hóa phải đi qua huyện Đakrông, tôi đã rất muốn rẽ vào khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông, tuy nhiên vì cảm thấy không đủ thời gian nên tôi đành bỏ qua. Đành phải hẹn vùng rừng núi Ta Lung, núi Klu với câu chuyện người con gái Đakrông của dân tộc Vân Kiều vào dịp khác.

Đến ngã ba Khe Sanh, tôi dừng lại một chút ở Di tích Tượng Đài Khe Sanh.

Di tích Tượng Đài Khe Sanh.

Tượng đài được xây dựng để tưởng niệm và ghi nhớ những người lính đã ngã xuống trong trận Khe Sanh, đồng thời cũng là một biểu tượng của tinh thần kiên cường và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Nó thể hiện sự tri ân sâu sắc của thế hệ sau đối với những hy sinh to lớn của các chiến sĩ và là một phần quan trọng trong việc giáo dục lịch sử cho các thế hệ trẻ.

Chiến dịch đường 9 – Khe Sanh.

Bối cảnh lịch sử.

Khe Sanh là một căn cứ quân sự quan trọng của Quân đội Hoa Kỳ và Quân đội Việt Nam Cộng hòa, nằm gần biên giới Lào, có vị trí chiến lược trong việc kiểm soát khu vực phía tây của Trường Sơn và ngăn chặn sự xâm nhập của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Việc kiểm soát Khe Sanh giúp quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, con đường tiếp tế quan trọng của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng.

Diễn biến.

  • Giai đoạn đầu: Trận đánh bắt đầu vào ngày 21 tháng 1 năm 1968, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam mở cuộc tấn công vào căn cứ Khe Sanh bằng pháo kích và tấn công bộ binh. Mục tiêu của Quân đội Nhân dân Việt Nam là bao vây và tiêu diệt lực lượng phòng thủ tại đây, tạo áp lực lên quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời làm giảm sự chú ý của quân đội Hoa Kỳ đối với cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.
  • Giai đoạn giữa: Trong suốt gần 77 ngày bao vây, căn cứ Khe Sanh bị pháo kích liên tục. Lực lượng phòng thủ bao gồm lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn lương thực, nước uống và đạn dược. Tuy nhiên, nhờ vào sự tiếp tế bằng đường hàng không và các chiến dịch cứu viện, lực lượng phòng thủ đã giữ vững căn cứ.
  • Giai đoạn cuối: Đến tháng 4 năm 1968, tình hình bắt đầu chuyển biến có lợi cho quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Các chiến dịch giải vây được triển khai, bao gồm Chiến dịch Pegasus, nhằm phá vỡ vòng vây của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đến tháng 7 năm 1968, vòng vây Khe Sanh chính thức được giải tỏa.

Tổng cộng các giai đoạn kéo dài 170 ngày, kết thúc khi lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Khe Sanh và Quân đội Nhân dân Việt Nam hoàn toàn kiểm soát cứ điểm này, đánh dấu sự thất bại của hàng rào điện tử McNamara. Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, quân đội Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương.

Kết quả và hậu quả.

Mặc dù Quân đội Nhân dân Việt Nam không chiếm được Khe Sanh, nhưng trận đánh này đã gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Khe Sanh trở thành một biểu tượng quan trọng của sự kháng cự và sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam, nhưng đồng thời cũng cho thấy sự kiên cường và quyết tâm của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Trận Khe Sanh còn có ý nghĩa chiến lược lớn trong việc đánh lạc hướng quân đội Hoa Kỳ, giúp cho Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng có thể triển khai cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân ở nhiều nơi khác trên khắp miền Nam Việt Nam.

Tầm quan trọng.

Trận Khe Sanh là một minh chứng rõ ràng cho sự khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, với sự tham gia của lực lượng lớn và các chiến thuật chiến đấu đa dạng. Đây cũng là một phần của chiến lược “tiêu hao” mà cả hai bên đều áp dụng, với mục tiêu làm suy yếu đối phương thông qua những trận đánh kéo dài và đẫm máu.

Đường mòn Hồ Chí Minh.

Tôi cũng ghé vào Di tích lịch sử đường mòn Hồ Chí Minh để thắp nén hương cho những người lính đã ngã xuống ở chiến trường khốc liệt này.

Rồi tiếp tục đi dọc lên Phía tây bắc theo đường Hồ Chí Minh Tây. Cảnh vật hai bên đường hiện ra thật đẹp và hoang sơ. Nghĩ đến cảnh những người lính cụ Hồ thời chiến xây dựng nên con đường này mới thấy khâm phục sự kiên cường chịu đựng của người dân Việt Nam.

Di tích sân bay Tà Cơn.

Vai trò chiến lược của Sân bay Tà Cơn.

Sân bay Tà Cơn có vai trò quan trọng trong việc tiếp tế, vận chuyển quân lính và vật tư cho căn cứ Khe Sanh và các khu vực lân cận. Vị trí của sân bay này giúp Hoa Kỳ duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ và phản ứng nhanh chóng trước các cuộc tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Diễn biến tại Sân bay Tà Cơn trong Chiến dịch Khe Sanh.

  • Giai đoạn đầu: Ngay từ đầu chiến dịch Khe Sanh, Sân bay Tà Cơn đã trở thành mục tiêu pháo kích và tấn công liên tục của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sân bay bị hư hại nặng nề nhưng vẫn giữ được khả năng tiếp tế bằng đường hàng không.
  • Tiếp tế và cứu viện: Mặc dù bị bao vây và pháo kích, sân bay Tà Cơn vẫn hoạt động và là nơi tiếp nhận các chuyến bay tiếp tế quan trọng từ Đà Nẵng và các căn cứ khác. Những chuyến bay này cung cấp lương thực, nước uống, đạn dược và thiết bị y tế cho lực lượng phòng thủ.
  • Giải vây: Trong giai đoạn cuối của chiến dịch, các lực lượng Hoa Kỳ đã triển khai Chiến dịch Pegasus nhằm giải vây Khe Sanh, bao gồm các hoạt động quân sự tập trung vào việc phá vỡ vòng vây tại sân bay Tà Cơn. Nhờ đó, sân bay này đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp tục duy trì sự phòng thủ của quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa.

Hiện trạng và di tích lịch sử.

Sân bay Tà Cơn đã trở thành một di tích lịch sử quan trọng, thu hút nhiều du khách và nhà nghiên cứu đến thăm quan. Khu di tích này bao gồm:

  • Bảo tàng Tà Cơn: Trưng bày nhiều hiện vật, hình ảnh và tài liệu liên quan đến trận Khe Sanh và vai trò của sân bay Tà Cơn trong chiến tranh.
  • Đường băng và các công trình quân sự: Một số phần của đường băng và các công trình quân sự cũ vẫn còn được bảo tồn, giúp du khách hình dung được quy mô và tầm quan trọng của căn cứ này trong chiến tranh.
  • Tượng đài và bia tưởng niệm: Được xây dựng để tưởng nhớ những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tại Khe Sanh.

Đỉnh Cu Vơ và hồ thủy điện Rào Quán.

Tôi dừng lại ở hàng nước trên đường và mở gói bánh ít lá gai ra ăn. Thấy chị bán nước bảo đi dọc lên một đoạn sẽ thấy phong cảnh đẹp hữu tình thì tôi mới tò mò.

Đỉnh Cu Vơ.

Giờ vẫn còn khá sớm, tôi nảy ra ý định trekking đỉnh Cu Vơ. Quá trình leo lên đỉnh khá dễ dàng đối với tôi, vì đường khá dễ lên và tôi thì có nhiều kinh nghiệm.

Leo lên đến nơi, tôi giật mình nhìn xuống cảnh bên dưới. Bảo còn sớm nhưng mà mặt trời cũng đã lên rồi. Bên dưới tôi là một biển mây bồng bềnh trôi lững lờ. Có lẽ tôi may mắn vì thường mặt trời lên thì sẽ làm mây tan. Tôi vội lôi máy ảnh ra chụp thật chăm chút. Khung cảnh này thường chỉ thấy ở Đà Lạt hay là Sa Pa thôi.

Đúng là tôi may mắn thật vì chỉ đứng ngắm thêm một lúc, sương tan hết, lộ ra lòng hồ thủy điện Rào Quán đẹp như tranh vẽ.

Hồ Rào Quán.

Rào Quán là một hồ thủy điện nằm ở địa bàn xã Hướng Linh, Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Hồ Rào Quán có dung tích tới 163 triệu mét khối, là thượng nguồn của con sông dài nhất tỉnh Quảng Trị, sông Thạch Hãn. Đây là địa điểm được người dân Quảng Trị tạo nên trong quá trình mở rộng lòng hồ thủy điện.

Đang vào mùa khô nên mực nước cạn, hồ nước như một “ốc đảo” bình yên làm tôi chỉ muốn nhảy từ trên đỉnh núi xuống để hòa vào dòng nước xanh ngắt nhìn thấy cả đáy. Thấy thấp thoáng cả những thớ đá bám rêu lúc ẩn lúc hiện dưới ánh mặt trời lên. Cảm giác yên tĩnh như có thể nghe tiếng cá quẫy đuôi, hay tiếng một vài viên sỏi vọng xuống lòng hồ. Tôi tưởng tượng mình mà được cắm trại đêm ở đây để tận hưởng không gian tĩnh mịch, chỉ có tiếng côn trùng kêu râm ran và tiếng cá động thì còn gì bằng…

Nhìn ra đằng xa xa là nhà máy điện gió thuộc xã Hướng Linh. Tôi có một sở thích cho riêng mình là có một ngày tôi sẽ chinh phục hết tất cả các nhà máy điện gió phủ khắp đất nước Việt Nam này. Và tôi gần như đã đạt tới mục tiêu này rồi.


Xem bản đồ thì nếu cứ thẳng hướng tây bắc đường Hồ Chí Minh thì sẽ đến Khu Bảo tồn Thiên nhiên bắc Hướng Hóa, dọc đường còn được chạy qua đèo Sa Mù mây phủ, tiện thể ngắm thác Chênh Vênhthác Tà Puồng luôn. Nhưng nhìn lại quỹ thời gian ít ỏi của mình, tôi vòng lại đường cũ, theo hướng dòng sông Thạch Hãn chảy để đến địa điểm tiếp theo trên hành trình khám phá vùng đất đau thương, thị xã Quảng Trị.

Thành cổ Quảng Trị và dòng sông Thạch Hãn.

Xuất phát từ Khe Sanh chạy ngược về thị xã Quảng Trị, tôi suýt thì rẽ nhầm vào đường cao tốc Cam Lộ – La Sơn, may mà hỏi đường người dân thì tôi kịp rẽ hướng, hướng đến Thành cổ Quảng Trị, Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Từ phía nam thành phố Đông Hà xuôi xuống một lúc, tôi đã đến Thành cổ.

Thành cổ Quảng Trị.

Theo tài liệu thì vào đầu thời Gia Long, thành Quảng Trị được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành – Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (tức vị trí ngày nay, thuộc phường 2, thị xã Quảng Trị). Ban đầu thành được đắp bằng đất, tới năm 1837 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Thành có dạng hình vuông, chu vi tường thành là hơn 2.000 m, cao hơn 4 m, dưới chân dày hơn 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài nhô hẳn ra ngoài. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian. Thành trổ bốn cửa chính ở các phía Đông, Tây, Nam, Bắc.

Trong những năm 1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Từ năm 1929, Pháp xây dựng thêm nhà lao ở đây và biến nơi đây thành nơi giam cầm những người có quan điểm chính trị đối lập.

Tại nơi đây đã có những trận đánh lớn trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam trong các năm 1968, 1972. Sau chiến dịch Xuân Hè 1972, toàn bộ Thành cổ gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết bom đạn.

Bước vào Thành cổ, mọi sự nắng nóng mệt mỏi của tôi đều biến mất. Thay vào đó là cảm giác lạnh lẽo của nơi được xem là “Đất tâm linh”.

Trận chiến Thành cổ Quảng Trị, chiến dịch Xuân Hè 1972.

Đây là trận chiến tôi được nghe kể đi kể lại từ bà nội. Năm 1972 là một năm bà nội đã phải trải qua đủ mọi cung bậc cảm xúc hỉ nộ ái ố trong cuộc đời. Vậy nên, những gì xảy ra trong năm đó bà tôi nhớ rõ như nắm trong lòng bàn tay.

Và từ những câu chuyện kể truyền cảm, bà nội tôi đã khiến cho một đứa trẻ trở nên hào hứng vô cùng với lịch sử hào hùng của quê hương đất nước, mà về sau đứa trẻ đó là tôi thuộc nằm lòng từng câu chữ và trở thành một con người yêu lịch sử đến nặng lòng.

Bên cạnh chiến tích vang dội ở trận đánh Điện Biên Phủ trên không bắn rơi hàng loạt “pháo đài bay” B-52 tại thủ đô Hà Nội thì trận chiến Thành cổ Quảng Trị cũng là một trong những trận đánh ác liệt nhất và có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kỳ. Trận đánh này diễn ra từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, ròng rã 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa. Đây là một phần của Chiến dịch Xuân-Hè 1972, hay còn được gọi là Chiến dịch Nguyễn Huệ, do Quân đội Nhân dân Việt Nam phát động nhằm giành lại các khu vực do Quân đội Việt Nam Cộng hòa và lực lượng quân đội Mỹ kiểm soát.

Bối cảnh lịch sử.

Chiến dịch Xuân-Hè 1972.

  • Mục tiêu của Quân đội Nhân dân Việt Nam: Tấn công mạnh mẽ vào các vị trí chiến lược của Việt Nam Cộng hòa và Mỹ nhằm giành lại các khu vực quan trọng, tạo lợi thế trong đàm phán Paris, đồng thời làm suy yếu ý chí chiến đấu của Việt Nam Cộng hòa và lực lượng Mỹ.
  • Thành cổ Quảng Trị: Là một địa điểm chiến lược quan trọng, việc chiếm giữ hoặc bảo vệ thành cổ có ý nghĩa lớn đối với cả hai bên trong việc kiểm soát khu vực miền Trung Việt Nam.

Diễn biến trận chiến.

Giai đoạn đầu: Tấn công và chiếm giữ (28 tháng 6 – 16 tháng 7).

  • Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công: Ngày 28 tháng 6 năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu cuộc tấn công vào Thành cổ Quảng Trị. Sau những trận đánh ác liệt, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiếm được Thành cổ vào ngày 9 tháng 7 năm 1972. Sự chiếm đóng này tạo ra một cú sốc lớn cho Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.
  • Việt Nam Cộng hòa phản công: Ngay sau khi mất thành cổ, Việt Nam Cộng hòa và quân đội Mỹ bắt đầu kế hoạch phản công nhằm tái chiếm lại vùng phía bắc tỉnh Quảng Trị và thành cổ Quảng Trị.

Giai đoạn giữa: Phản công và chiến đấu ác liệt (16 tháng 7 – 31 tháng 8).

  • Chiến đấu trong Thành cổ: Các trận đánh diễn ra rất ác liệt và khốc liệt. Quân đội Nhân dân Việt Nam cố gắng giữ vững các vị trí đã chiếm, trong khi Việt Nam Cộng hòa và lực lượng quân đội Mỹ liên tục tổ chức các cuộc tấn công để giành lại từng mét đất.
  • Thiệt hại nặng nề: Cả hai bên đều chịu thiệt hại nặng nề về người và trang thiết bị. Thành cổ Quảng Trị bị phá hủy nặng nề do bom đạn.

Giai đoạn cuối: Tái chiếm thành cổ (1 tháng 9 – 16 tháng 9).

  • Việt Nam Cộng hòa tăng cường lực lượng: Với sự hỗ trợ mạnh mẽ của không quân và pháo binh Mỹ, Việt Nam Cộng hòa đã tăng cường lực lượng và tổ chức các cuộc tấn công quy mô lớn.
  • Tái chiếm Thành cổ: Ngày 16 tháng 9 năm 1972, Việt Nam Cộng hòa chính thức tái chiếm Thành cổ Quảng Trị. Tuy nhiên, xung quanh thị xã Quảng Trị đã bị tàn phá nặng nề và gần như trở thành một đống đổ nát.

Kết quả và hậu quả.

  • Quân sự: Trận chiến kết thúc với việc Việt Nam Cộng hòa tái chiếm được thành cổ Quảng Trị, nhưng với thiệt hại rất lớn. Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng chịu tổn thất nặng nề nhưng đã thành công trong việc làm suy yếu lực lượng Việt Nam Cộng hòa và kéo dài cuộc chiến.
  • Chính trị: Trận chiến Quảng Trị là một trong những sự kiện quan trọng trong Chiến dịch Xuân-Hè 1972, ảnh hưởng lớn đến cuộc đàm phán hòa bình tại Paris. Nó chứng minh rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể tiến hành những cuộc tấn công quy mô lớn và gây áp lực lên Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.
  • Tâm lý: Trận chiến Quảng Trị đã gây ra một cú sốc tâm lý lớn đối với cả hai bên. Đối với Việt Nam Cộng hòa, việc mất và sau đó tái chiếm thành cổ cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam, trận chiến này chứng minh khả năng chiến đấu và quyết tâm cao độ của họ.

Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, UBND tỉnh Quảng Trị cho tôn tạo lại thành để làm di tích. Thành cổ được phục chế vài đoạn tường thành, làm lại bốn cổng chính, ngay trung tâm thành được xây một đài tưởng niệm ghi dấu ấn 81 ngày đêm năm 1972. Góc phía tây nam dựng lên một ngôi nhà hiện đại làm bảo tàng. Toàn bộ đường dẫn vào di tích và mặt đất bên trong Thành cổ được tráng xi măng chừa ô trồng cỏ. Về sau này, Thành cổ được người dân trong vùng xem là “Đất Tâm Linh” vì nơi đây bất cứ tấc đất nào cũng có dấu vết của bom đạn và máu xương các binh sĩ hai bên.

Mùa hè đỏ lửa năm 1972 dường như là một kỉ niệm không bao giờ quên trong lòng những người chiến sỹ năm xưa. Cựu chiến binh Nguyễn Viết Nội – nguyên chiến sĩ bảo vệ thành công Thành cổ Quảng Trị năm 1972 chia sẻ: ”Bấy giờ giống như ‘cối xay thịt’ vì bom đạn nó đánh liên tục, mặt đất rung lên bần bật cả một thị xã Quảng Trị rất đẹp đẽ nhưng sau một trận đánh nhau nó tàn sát đến mức độ không còn một viên gạch nguyên vẹn”.

Ở trong bảo tàng còn lưu giữ lại bức thư thiêng của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh, quê ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Năm 1972, khi đang là sinh viên năm 4, theo tiếng gọi Tổ quốc, anh đã tạm biệt giảng đường, tạm biệt mẹ, người vợ trẻ và quê hương để lên đường vào Nam chiến đấu. Bức thư được xem như là bản “di chúc” của người chiến sĩ trẻ viết từ chiến trường Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm khói lửa, được gia đình, bạn bè và đồng đội cất giữ và trao tặng cho Bảo tàng Thành Cổ Quảng Trị sau 40 năm.

Quảng Trị, ngày 11-9-1972,

Toàn gia đình kính thương!

Hôm nay con ngồi đây biên vài dòng chữ cuối cùng, phòng khi đã “đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất”, thì gia đình khỏi thấy đó là điều đột ngột.
Mẹ kính mến! Thư này tới mẹ là con đã đi xa rồi. Chắc mẹ đau buồn lắm. Lớn lên trong vòng tay mẹ từ khi còn trứng nước, chưa kịp báo đáp công ơn sinh thành, giờ con đi xa là để lại cho mẹ nỗi buồn nhất trên đời.

Em yêu thương. Mọi lá thư đến với em đều là nguồn động viên em khi xa anh. Song, lá thư này đến tay em sẽ là nỗi buồn lớn nhất. Chúng ta sống với nhau chưa được bao lâu, thì chiến tranh đã cướp đi của em biết bao yêu thương, trìu mến. Người ta lấy chồng thì được chiều chuộng mọi điều. Em chưa được hưởng diễm phúc ấy đã phải xa anh…

Sau này hòa bình lập lại, nếu có điều kiện vào Nam, hãy mang hài cốt anh về. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã hy sinh khi đưa hàng qua sông vào ngày 2-1-1973. Từ thị xã qua cầu, ngược trở lại, hỏi thăm thôn Nhan Biều. Em cứ đi đến đó, tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Đến đó sẽ tìm thấy tấm bia ghi tên anh đục trên mảnh tôn. Mộ anh ở đó… Em sẽ đọc lá thư này cho mọi người trong gia đình nghe trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi lời chúc sức khỏe tất cả những người quen thuộc trên quê hương trong buổi truy điệu lịch sử này….

Bức thư liệt sĩ gửi về cho gia đình vào tháng 9 năm 1972.

Bức thư anh viết trước ngày anh hy sinh hơn 3 tháng, từ những trang sổ tay xé ra, dài gần 10 trang khổ nhỏ. Dự cảm về cái chết đang đến rất gần, anh xem bức thư này như những lời trăng trối. Không ai hiểu tại sao anh biết trước cái chết của mình, biết tường tận nơi mình sẽ nằm xuống… Trong cả bức thư anh không hề nhắc đến một từ “hy sinh”, anh xem cái chết như một lẽ tự nhiên, đối với anh hy sinh vì hòa bình của đất nước, độc lập dân tộc là một điều thiêng liêng và cao quý nhất.

Sau đó hàng tháng anh đều gửi thư về nhà, thư anh gửi về, ai đọc đều rơi nước mắt. Chiến trường ác liệt, anh viết gửi vợ đôi lời: “Anh mang tiếng đi chiến đấu, người ta trực tiếp cầm súng, nhưng anh thì không. Anh theo chỉ huy đi đào hầm, vận chuyển bộ đội từ bờ Bắc sang bờ Nam. Nhưng mà tình hình khốc liệt quá, em à”. Đến tháng 12 năm 1972, đã không còn lá thư nào được gửi nữa.

Tôi đọc xong bức thư và cũng không thể kìm nổi nỗi buồn tiếc thương. Mảnh đất Quảng Trị khô cằn chó ăn đá, gà ăn sỏi mà lại phải chịu đựng biết bao đau thương, mất mát. Đứng trên mảnh đất này giữa thời bình, tôi vẫn có thể cảm nhận được sự tàn khốc đến tàn ác mà chiến tranh gây ra.

Tôi đi bộ ra bờ sông Thạch Hãn, lòng trầm ngâm nghĩ về những vị anh hùng đã đổ bao xương máu để đất nước được sống hòa bình.

Sông Thạch Hãn.

Chiến dịch Xuân Hè 1972 kéo dài từ Tây sang Đông (từ Khe Sanh sang Cửa Việt), từ Bắc vào Nam (từ Vĩnh Linh vào đến Hải Lăng), để lại những xác người nằm lại xuống đất thiêng.

Người ta vẫn thường nhắc về 4 câu thơ trong bài Lời gọi bên sông của Lê Bá Dương, một cựu chiến binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từng tham gia trận đánh lịch sử này:

“Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ,
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước,
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm.”

Tôi bất giác nhìn xuống lòng sông, tự hỏi rằng đã có bao nhiêu con người bỏ lại mọi thứ để cùng bảo vệ Tổ quốc, rồi nằm lại đó tới muôn đời sau. Màu nước sông ánh lên tia nắng không biết là màu đỏ của phù sa hay màu máu đổ ra vì một tương lai dành cho thế hệ sau.

Thánh địa La Vang.

Rời khỏi thị xã Quảng Trị với nỗi niềm chưa nguôi, tôi xuôi xuống phía nam về huyện Hải Lăng. Tuy là người vô thần nhưng tôi lại khá chịu khó tìm hiểu về những địa điểm tôn giáo tín ngưỡng.

Chạy xe thoáng cái là đã đến Công giáo La Vang rồi. La Vang, tên đầy đủ là Trung tâm hành hương Đức Mẹ La Vang hay còn gọi là Linh địa Đức Mẹ La Vang), tọa lạc tại thôn Phú Hưng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Sự tích Đức Mẹ hiển linh.

Theo Tư liệu Tòa Tổng Giám mục Huế – 1998, dưới triều đại vua Cảnh Thịnh (lên ngôi năm 1792), với chiếu chỉ cấm đạo ngày 17 tháng 8 năm 1798, một số các tín hữu ở gần đồi Dinh Cát (nay là thị xã Quảng Trị) phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại núi rừng La Vang. Nơi rừng thiêng nước độc, hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu ăn, bệnh tật, sợ hãi quan quân, sợ thú dữ, các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Thiên Chúa và Đức Mẹ. Họ thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.

Một hôm khi đang cùng nhau lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ, bỗng họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo choàng rộng, tay bồng Chúa Hài Đồng Jesus, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra ngay là Đức Mẹ Maria. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân vui lòng chịu khó. Mẹ dạy hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện”.

Sự kiện xảy ra trên thảm cỏ gần gốc cây đa cổ thụ nơi giáo dân đang cầu nguyện. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn.

Từ đó đến nay sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ được loan truyền khắp nơi, và nhiều người chân thành tin tưởng, đến cầu khấn Đức Mẹ. Đức Mẹ La Vang thường được biểu tượng bằng một phụ nữ mặc áo dài Việt Nam bế con cũng mặc trang phục truyền thống Việt Nam.

Tên gọi La Vang.

Theo một thuyết, dưới thời vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn có chính sách chống đạo Công giáo. Cho nên để tránh sự trừng phạt của nhà Tây Sơn, nhiều giáo dân ở vùng Quảng Trị đã chạy lên vùng đất này. Đây là khu vực đồi núi hẻo lánh nên để liên lạc với nhau được thì họ phải “la” lớn, mà “la” lớn thì “vang”. Cái tên La Vang ra đời.

Một giả thuyết tương tự về tiếng “la vang” đã từ đặc tính của âm thanh chuyển thành danh từ riêng, nói rằng nơi chốn rừng rú này xưa kia có nhiều cọp beo hại người. Do đó, những người đi rừng nếu ở lại đêm thì thường chia nhau thức canh, thấy động thì “la vang” lên để mọi người đến tiếp cứu.

Một cách giải thích khác là khi giáo dân chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc bấy giờ Đức Mẹ đã hiện ra và chỉ dẫn cho họ đi tìm một loại lá gọi là lá vằng – uống vào sẽ chữa khỏi bệnh. Viết “lá vằng” không dấu thành La Vang.

Một thuyết khác cho là địa danh “phường Lá Vắng” đã có từ trước đó, thuộc làng Cổ Vưu, nằm về phía Tây cách đồn Dinh Cát, về sau là tỉnh lỵ Quảng Trị, 4 cây số và cách Phú Xuân, tức Kinh Đô Huế, 58 km về phía Bắc.

Trằm Trà Lộc.

Loanh quanh ở La Vang một lúc, tôi lấy xe đi tiếp sang phía đông của huyện Hải Lăng. Xem trên bản đồ thấy vùng này địa hình đất cát ít màu mỡ, thế mà lại mọc đâu ra một đầm nước xanh rì mát mẻ.

Đến nơi, tôi phải ăn cái đã. Ngồi dưới cái nóng của mùa hè trong căn chòi thiếu gió mà chẳng hiểu sao lại thấy mát vô cùng. Tôi lại phải thốt lên rằng thiên nhiên chắc chắn đã không bỏ quên tỉnh Quảng Trị, chỉ là cảnh sắc nơi đây đã bị che mờ bởi khói thuốc đạn bom.

Tôi đi thuyền ra hồ, để nhìn ngắm mọi thứ xung quanh rõ ràng hơn. “Đây vẫn là rừng nguyên sinh.” Tôi chắc chắn trong suy nghĩ của mình. Thuyền vừa lướt vừa rẽ bèo, thi thoảng lại qua một đầm sen hay đầm súng đúng mùa hoa nở rộ. Tôi không nghĩ là sẽ thấy một hệ sinh thái đa dạng như vậy ở vùng đầm phá này. Cả một hàng đước ngập mặn hiện ra trước mắt, khu rừng nguyên sinh ẩn hiện những chú khỉ leo trèo, hàng phi lao trắng xóa đàn cò bay rợp trời…

– Tau bẩu mi nì, mi bỏ lỡ lễ hội phá Trằm rùi. (Tao bảo mày này, mày bỏ qua lễ hội phá Trằm rồi.)

Nghe anh lái thuyền kể về lễ hội diễn ra vào mùa thu hàng năm mà tôi đã thấy vui hết cỡ rồi, không biết được trải nghiệm thì sẽ như thế nào nhỉ?

Tháng 7 âm lịch hàng năm, đến với thôn Trà Lộc, xã Hải Hưng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, mọi người sẽ được tham dự lễ hội phá Trằm bắt cá. Lễ hội này có lịch sử hơn 300 năm, được xem là ngày hội thuần nông của những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, sau khi thu hoạch xong vụ lúa hè thu. Vùng đầm nước này có diện tích mặt nước khoảng 10ha, với rất nhiều cá, tôm sinh sống, nhiều nhất vẫn là cá lóc, cá rô và cá diếc…, xung quanh là rừng nguyên sinh và thảm thực vật rộng chừng 100ha.

Có vẻ như Trằm Trà Lộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người dân nơi đây.

Tôi có một lời hẹn với anh lái thuyền rằng chắc chắn tôi sẽ quay lại đây vào đúng mùa lễ hội.

Biển Cửa Việt.

Tạm biệt Trằm Trà Lộc, men theo dòng sông Thạch Hãn giao với sông Hiếu đổ ra biển, tôi chạy xe đến cảng Cửa Việt. Đích đến tiếp theo nằm trong dự tính là đảo Cồn Cỏ. Tôi chạy lăng xăng hỏi các tàu ra đảo nhưng chỉ có người được ra còn xe thì phải ở lại, muốn đem cả người lẫn xe ra đảo thì phải chờ tàu lớn, vậy nên tôi đành tìm phương án khác trong ngày hôm đó. Thấy có người nói có ở Cửa Tùng có nhiều tàu ra đảo Cồn Cỏ lắm, tôi cũng muốn thử xem, nhưng khi nghe tới cái giá khá chát thì cuối cùng tôi đã bỏ cuộc.

Tôi đã có lựa chọn khác cho mình. Khi trên đường ra Cửa Việt, tôi có quan sát thấy một con đường dài hơn 30km chạy thẳng tắp qua địa hình đồi cát. Được rồi, lên đường thôi.

Cảm giác như đang ở đâu chứ không phải Việt Nam.

Hai bên đường không một bóng người, thậm chí là nhà cửa hay trạm xăng. Tôi cứ thế vít ga để cảm nhận gió biển ở ngoài thổi vào. Cứ như là tôi sẽ không bao giờ có thể thoát khỏi nơi này vậy khi cảnh vật giống nhau đến đáng sợ dù tôi đã đi một quãng xa lắm rồi. Từng đồi cát, từng đầm lầy vụt qua vừa khiến tôi phấn khích, vừa lạnh sống lưng.

Bãi tắm Triệu Lăng.

Đi mãi, đi mãi mới đến một ngã tư có biển chỉ vào bãi tắm Triệu Lăng, tôi vòng vào một lúc hít chút không khí biển rồi lại về đường cũ đi tiếp.

Biển Mỹ Thủy.

Tôi chọn điểm dừng chân cuối ngày ở Mỹ Thủy. Tôi chỉ có thể miêu tả nơi đây bằng hai từ dịu dàng. Nước trong xanh nhìn thấy đáy, bờ cát trắng mịn khiến tôi nổi hứng chạy xe máy dọc theo đường sóng đánh. Chẳng khác gì đứa trẻ con được bố mẹ đưa đi chơi sau một năm học dài đằng đẵng, tôi hú hét thỏa thích mà chẳng sợ ai đánh giá.

Tôi đã nghe nói rằng mực Mỹ Thủy ngon số một Quảng Trị luôn, vậy nên bữa tối hôm đó tôi chỉ ăn mực, nào là mực hấp, mực xào, mực nướng, đến ăn cơm chiên cũng với mực luôn. Tôi mua thêm bánh bột lọc Mỹ Chánh để về nghỉ ngơi ăn cho vui miệng theo lời chị bán hàng rong bên đường.

Ngủ một giấc thật sâu và tạm biệt mảnh đất Quảng Trị mang theo biết bao nhiêu câu chuyện để kể.

Hẹn ngày quay trở lại!


Bài viết có tham khảo và trích dẫn trực tiếp từ Wikipedia, cùng với các nguồn trong và ngoài nước.

Leave a Comment

Item added to cart.
0 items - $0.00